CÁC TRƯỜNG HỢP VÀ ĐIỀU KIỆN GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP THEO QUY ĐỊNH TẠI LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

Các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014

 

Hiện nay, thủ tục giải thể doanh nghiệp ở nước ta được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá là có cải thiện đáng kể và đã đạt được những kết quả tích cực so với trước đây. Tuy vậy, một số vấn đề còn tồn tại trong các quy định về giải thể doanh nghiệp cũng như trong thực tiễn thi hành cần được tiếp tục được cải cách và hoàn thiện, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp, trong đó có thủ tục hành chính về giải thể doanh nghiệp. Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu và làm rõ các trường hợp cũng như điều kiện để giải thể doanh nghiệp theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014.

 

 

1. Về các trường hợp giải thể doanh nghiệp

 

Các trường hợp giải thể doanh nghiệp đã được quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2005 và tiếp tục được kế thừa tại Luật Doanh nghiệp năm 2014. Trong đó, các trường hợp giải thể doanh nghiệp được quy định cụ thể như sau:

 

a) Giải thể theo quyết định của chủ doanh nghiệp

 

Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định, một trong các trường hợp giải thể doanh nghiệp là giải thể theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân; của thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, của Đại hội đồng cổ đông với công ty cổ phần.

 

Quyết định giải thể này thể hiện sự tự nguyện của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp của mình. Việc chủ doanh nghiệp không muốn tiếp tục kinh doanh có thể bắt nguồn từ những lý do khác nhau, chẳng hạn như lợi nhuận thấp, thua lỗ kéo dài, có mâu thuẫn nội bộ, không còn phù hợp với mục đích kinh doanh đề ra ban đầu và nhiều yếu tố khác. Trong trường hợp này, chủ doanh nghiệp có thể đi đến quyết định giải thể doanh nghiệp để thu hồi vốn hoặc chuyển sang kinh doanh những loại hình doanh nghiệp khác với những chủ thể khác. Đây là quyết định hoàn toàn mang tính tự nguyện và chủ động của chủ doanh nghiệp.

 

b) Khi kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn

 

Trường hợp Điều lệ công ty có quy định về thời hạn hoạt động, khi hết thời hạn hoạt động được ghi trong Điều lệ công ty, nếu các thành viên không muốn xin gia hạn hoạt động, thì công ty phải tiến hành giải thể. Việc quy định thời hạn hoạt động của doanh nghiệp có thể do thỏa thuận của các thành viên, cổ đông sáng lập, hoặc do sự cấp phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

 

c) Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật Doanh nghiệp trong thời hạn 06 tháng liên tục

 

Có đủ số lượng thành viên tối thiểu là một trong những điều kiện để công ty tồn tại và hoạt động. Pháp luật quy định số lượng thành viên tối thiểu cho mỗi loại hình công ty khác nhau. Số lượng thành viên tối thiểu theo quy định đối với công ty cổ phần là ba, con số này là hai đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên. Đối với công ty hợp danh, pháp luật quy định phải có ít nhất hai cá nhân là thành viên hợp danh. Khi không có đủ số lượng thành viên tối thiểu để tiếp tục tồn tại, công ty phải kết nạp thêm thành viên cho đủ số lượng thành viên tối thiểu. Nếu trong thời hạn 6 tháng liên tục mà công ty không tiến hành kết nạp thêm thành viên khi số lượng thành viên không đủ hoặc không chuyển đổi sang loại hình doanh nghiệp phù hợp thì công ty phải tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp.

 

d) Công ty bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

 

Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp phải triệu tập họp để quyết định giải thể doanh nghiệp. Để thành lập doanh nghiệp, người thành lập phải chuẩn bị hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và nộp cho cơ quan đăng ký kinh doanh đồng thời phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực và hợp pháp của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp. Trên cơ sở hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ thực hiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho doanh nghiệp, ghi nhận sự ra đời, công nhận về mặt pháp lý sự xuất hiện của doanh nghiệp trên thị trường. Có thể nói, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chính là tấm giấy “thông hành” để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động của mình trên thị trường cũng như xác lập các quan hệ pháp lý với cơ quan nhà nước. Do vậy, bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cũng có nghĩa là Nhà nước rút lại sự công nhận tư cách chủ thể kinh doanh đối với doanh nghiệp. Trong trường hợp này, doanh nghiệp không còn được công nhận về địa vị pháp lý và không còn được tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.

 

Có thể thấy, các trường hợp giải thể doanh nghiệp tại Luật Doanh nghiệp đã khái quát khá cụ thể, giúp doanh nghiệp có thể chủ động nắm bắt khi nào thì được tiến hành giải thể. Tuy nhiên, trong đó vẫn còn tồn tại những vấn đề cần phải làm rõ. Chẳng hạn như, Khoản 1 Điều 211 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định 5 trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, bao gồm:

 

(i) Nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo;

 

(ii) Doanh nghiệp do những người bị cấm thành lập doanh nghiệp theo khoản 2 Điều 18 của Luật này thành lập;

 

(iii) Doanh nghiệp ngừng hoạt động kinh doanh 01 năm mà không thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế;

 

(iv) Doanh nghiệp không gửi báo cáo theo quy định tại điểu c khoản 1 Điều 209 của Luật này đến Cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày hết hạn gửi báo cáo hoặc có yêu cầu bằng văn bản;

 

(v) Trường hợp khác theo quyết định của Tòa án

 

Ngoài ra, theo quy định tại Luật Quản lý thuế thì một trong các trường hợp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký thuế là các doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật về thuế và bị cơ quan quản lý thuế ra quyết định Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký thuế.

 

Trong khi đó, theo quy định tại Nghị định số 78/2015/NĐ-CP thì Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và Giấy chứng nhận đăng ký thuế của doanh nghiệp.

 

Do vậy, tại Nghị định số 78/2015/NĐ-CP, Chính phủ đã bổ sung thêm một trường hợp doanh nghiệp bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Đó là trường hợp doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp luật về thuế và bị cơ quan quản lý thuế ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Trong trường hợp này, doanh nghiệp buộc phải giải thể theo quy định.

 

2. Về điều kiện giải thể doanh nghiệp
 

Các quy định về giải thể doanh nghiệp không chỉ tạo cơ sở pháp lý để chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp, mà quan trọng hơn là còn bảo vệ quyền lợi của những chủ thể có liên quan, đặc biệt là quyền lợi của chủ nợ và người lao động khi doanh nghiệp chấm dứt tồn tại. Do vậy, việc xác định rõ điều kiện để tiến hành giải thể doanh nghiệp là hết sức cần thiết.

 

Vấn đề mấu chốt trong giải thể doanh nghiệp là giải quyết những khoản nợ và những hợp đồng mà doanh nghiệp đã giao kết trước khi chấm dứt tồn tại. Các khoản nợ và hợp đồng này có thể được thực hiện bằng các giải pháp như: doanh nghiệp tiến hành thanh toán hết các khoản nợ và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ hợp đồng; chuyển giao nghĩa vụ thanh toán nợ và nghĩa vụ hợp đồng cho chủ thể khác theo thỏa thuận giữa các bên có liên quan.

 

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 201 Luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp chỉ được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài.

 

Như đã nói ở trên, giải thể doanh nghiệp có hai trường hợp là giải thể tự nguyện hoặc giải thể bắt buộc. Nhưng cho dù là giải thể tự nguyện hay giải thể bắt buộc thì điều kiện đặt ra là doanh nghiệp phải đảm bảo thanh toán được các nghĩa vụ tài chính của mình. Đây là quy định nhằm đảm bảo tối đa quyền, lợi ích của những người có liên quan tới doanh nghiệp như người lao động trong doanh nghiệp hay các chủ nợ.